Bệnh học đường: Áp lực lên sức khoẻ học sinh
- trienkhaiweb
- Tháng Một 16, 2024
- 0 Comments
Áp lực học tập đối với trẻ em ngày càng lớn, cơ sở vật chất các trường học chưa đảm bảo về chất lượng và tiêu chuẩn, thiếu thốn (nhất là vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa), thời gian học tập, nghỉ ngơi không hợp lý,… gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe, làm giảm khả năng học tập của trẻ và là nguyên nhân ngày càng gia tăng các bệnh học đường, nhất là cận thị và cong vẹo cột sống.
Bệnh cận thị trở nên phổ biến
Cận thị có thể do di truyền hoặc do lớp học không đảm bảo ánh sáng (làm cho mắt trẻ phải điều tiết nhiều), kích thước bàn, ghế không phù hợp, ngồi học tư thế sai như nhìn gần, nằm, quỳ khi học ở nhà, sử dụng máy vi tính quá lâu… và một số yếu tố bất lợi khác: sách vở, chữ viết… chưa đạt tiêu chuẩn.
Tỉ lệ cận thị ở trẻ em tăng mạnh trong những năm vừa qua
Cho đến nay, vẫn chưa có số liệu thống kê các bệnh học đường của học sinh trên phạm vi toàn quốc. Nhưng qua kết quả nghiên cứu của các đề tài khoa học tiến hành ở các địa phương, tỷ lệ mắc tật cận thị ở học sinh Việt Nam tăng lên ở mức báo động.
Trong thời gian 10 năm (từ năm 1998 đến 2009), tỷ lệ học sinh mắc tật khúc xạ ở các bậc học tăng khoảng 2 lần. Đặc biệt, ở các trường chuyên, lớp chọn tỷ lệ học sinh bị cận thị xấp xỉ 60%. Một thống kê cho thấy: số người mắc tật khúc xạ tại Bệnh viện Mắt thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn 30% trong tổng số bệnh nhân đến khám; tỷ lệ bệnh và mức độ cận cũng tăng lên theo cấp học của học sinh, tỷ lệ cận thị ở học sinh đầu cấp là 18%. Năm 2009, tại thành phố Hà Nội tỷ lệ học sinh Hà Nội bị cận thị chiếm khoảng gần 37% và một báo cáo nghiên cứu tại Hải Phòng thì số học sinh bị cận thị chiếm 36%. Nguyên nhân của thực trạng này là do nhu cầu sử dụng thị lực nhìn gần trong học tập và sinh hoạt trong cuộc sống hiện đại ngày càng tăng cao, cường độ học quá nhiều, quá căng thẳng, hay kích thước bàn ghế không đúng tiêu chuẩn, tư thế ngồi học không đúng, thiếu ánh sáng, nhất là tình trạng sử dụng vi tính hoặc xem ti vi quá nhiều.
Cong vẹo cột sống cũng gia tăng
Sau cận thị, thực trạng cong vẹo cột sống cũng đang có xu hướng gia tăng trong học sinh. Nguyên nhân do độ cong cột sống của trẻ nhỏ hơn của người lớn. Độ mềm dẻo, linh hoạt cột sống lớn hơn. Vì vậy, khi trẻ học tập, sinh hoạt, nếu tư thế không đúng, cột sống dễ mắc các tật khó chữa như: Cong lưng (đoạn cột sống ngực quá cong lồi); vẹo lưng (đoạn cột sống ngực cong sang hai bên) và ưỡn lưng (đoạn cột sống thắt lưng ưỡn ra trước). Cong vẹo cột sống gây lệch trọng tâm cơ thể, ảnh hưởng đến hoạt động của tim, phổi, cũng có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của khung chậu… Nếu mắc bệnh nặng mà không được điều trị có thể dẫn đến rối loạn thể chất, các hội chứng viêm nhiễm, rối loạn chức năng tuần hoàn, hô hấp.
Tỷ lệ học sinh Việt Nam bị mắc bệnh cong vẹo cột sống chiếm tỷ lệ từ 15 đến 25%. Nguyên nhân là kích thước bàn ghế không phù hợp với chiều cao học sinh, tư thế ngồi, mang vác nặng. Tỷ lệ chung trong độ tuổi học sinh ở Hà Nội bị cong vẹo cột sống năm 2004-2005 là 18,9%, đến nay đã tăng lên trên 20%. Đáng lưu ý, HS càng lớp trên càng bị CVCS nhiều hơn, cụ thể khối 1 là 17%, khối 5 là 17,6%, khối 9 là 22,2%.
Hiện nay, học sinh tiểu học phải mang quá nhiều sách. Trong khi quy định với 40 kg trọng lượng cơ thể, thì chỉ nên mang tương đương 1/10, thì nhiều học sinh tiểu học nặng 25kg phải đeo cặp tới 4kg. Ngoài ra, trẻ thường thích xem tivi, chơi máy tính… sau giờ học nên không có thời gian vui chơi giải trí, hoạt động cơ bắp thể dục, thể thao, gây quá tải cho hệ cơ xương kéo dài dẫn đến cong vẹo cột sống.
Củng cố hoạt động y tế trường học
Hiện cả nước có trên 36.000 trường học thuộc các cấp học khác nhau, với gần 25 triệu học sinh, sinh viên, chiếm khoảng 26% tổng dân số. Do đó, việc quan tâm chăm sóc sức khỏe cho đối tượng này có một vị trí vô cùng quan trọng và cần thiết, song hiện nay cơ sở vật chất trường học và hệ thống y tế học đường vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Mạng lưới y tế nhà trường ở nước ta hiện nay vẫn còn thiếu và yếu, chưa đảm bảo về chất lượng, cơ sở vật chất, nhân lực để chăm sóc sức khỏe cho học sinh, dẫn đến tình trạng sức khỏe học sinh có phần giảm sút làm gia tăng một số bệnh học đường như bệnh cận thị, cong vẹo cột sống… Đặc biệt, hiện có 15 tỉnh, thành phố hoàn toàn không có các trang thiết bị thiết yếu phục vụ công tác giám sát các yếu tố vệ sinh trường học.
Chương trình sức khỏe học đường giai đoạn 2021-2025 hướng tới việc chăm sóc sức khoẻ toàn diện cho thế hệ mầm non tương lai của đất nước
Chương trình sức khỏe học đường giai đoạn 2021-2025 được ban hành nhằm duy trì, đẩy mạnh hoạt động giáo dục, chăm sóc, bảo vệ và quản lý sức khỏe trẻ em, học sinh trong trường học nhằm bảo đảm sự phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần cho học sinh.
Chương trình xác định 5 nhóm nội dung và 7 nhóm giải pháp về chăm sóc, bảo vệ và quản lý sức khoẻ, trẻ em, học sinh; giáo dục thể chất và hoạt động thể thao học đường; tổ chức bữa ăn học đường, bảo đảm dinh dưỡng hợp lý; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành, giám sát, thống kê, báo cáo; tuyên truyền, giáo dục sức khỏe học đường trong trường học.
Trong những năm qua, một số chương trình, dự án cũng đã đưa vào trường học nhằm chăm sóc và bảo vệ sức khỏe trẻ em, học sinh như phòng chống dịch bệnh, tiêm chủng mở rộng, phòng chống suy dinh dưỡng, vệ sinh thực phẩm… nhưng với phạm vi riêng lẻ, không đồng bộ, triển khai trên một số địa phương, trường học.
Chương trình sức khỏe học đường giai đoạn 2021-2025 thể hiện sự quyết tâm và khát vọng của quốc gia vào việc chăm sóc cho thế hệ tương lai. Đây là bước khởi đầu cho một chương trình thiết thực, tổng thể và dài hạn về sức khỏe học đường, quy mô lớn nhất từ trước đến nay, lựa chọn các nội dung ưu tiên đối với sức khỏe trẻ em, học sinh trên cả nước, tránh sự trùng lặp, triển khai chồng chéo.
Với chương trình này, hơn 22 triệu trẻ em, học sinh (tương đương 25% dân số Việt Nam) được chăm sóc sức khỏe ban đầu ngay từ trong trường học. Điều này sẽ tiết kiệm được khoản kinh phí lớn dành cho công tác điều trị, giảm bớt gánh nặng của bệnh tật cho gia đình và toàn xã hội, cải thiện tầm vóc, chất lượng giống nòi. Nguồn kinh phí tiết kiệm được sẽ tăng cường cho đầu tư phát triển. Học sinh có sức khỏe tốt sẽ học tập và thành đạt hơn trên con đường học vấn, đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Cùng chuyên mục
Trầm cảm có di truyền không?
Trầm cảm có di truyền không?
Gần đây, con gái 14 tuổi của tôi có biểu hiện không thích tiếp xúc, ngại giao tiếp, thu mình trong phòng. Gia đình có người từng điều trị trầm…
Trường học “khát” nước sạch
Trường học “khát” nước sạch
Dự án 1.000 nhà vệ sinh trường học thuộc Chương trình “Điều ước cho em” do Bộ GD-ĐT khởi xướng, dự án trị giá 60 tỷ đồng và thực hiện…
Các trường học sẽ có giáo viên tư vấn tâm lý học đường
Các trường học sẽ có giáo viên tư vấn tâm lý học đường
Trong các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp sẽ thành lập câu lạc bộ, các trung tâm tư vấn nghề nghiệp, kết hợp tư vấn tâm…
Trầm cảm có di truyền không?
Trầm cảm có di truyền không?
Gần đây, con gái 14 tuổi của tôi có biểu hiện không thích tiếp xúc, ngại giao tiếp, thu mình trong phòng. Gia đình có người từng điều trị trầm…
Các trường học sẽ có giáo viên tư vấn tâm lý học đường
Các trường học sẽ có giáo viên tư vấn tâm lý học đường
Trong các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp sẽ thành lập câu lạc bộ, các trung tâm tư vấn nghề nghiệp, kết hợp tư vấn tâm…